Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu, cỡ mẫu thuận tiện các trường hợp ung thư gan (Nguyên phát và thứ phát) được chẩn đoán xác định bằng giải phẫu bệnh sau mổ. Bệnh nhân được mổ cắt gan tại khoa Ngoại Ung bướu - Chăm sóc giảm nhẹ, Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp từ T1/2020 – T10/2023. Kết quả: 38 bệnh nhân được phẫu thuật. Tuổi trung bình là 58,1± 11,37 (30 – 77) tuổi. Nam/ nữ = 4.4/1. Lý do vào viện hay gặp nhất lần lượt là theo dõi viêm gan (39,5%), khám sức khoẻ (31,6%), đau bụng HSP (15.8%), và mệt mỏi – sụt cân (10,5%). Tình trạng viêm gan B, viêm gan C lần lượt là 71% và 15,8%. Trung vị Nồng độ AFP huyết thanh là 117 (3,45 – 1668) ng/mL. Nhóm BN có nồng độ AFP < 20, 20 – 400, > 400 ng/mL lần lượt là 47,4%, 28.9%, và 23,7%. Kích thước trung bình u trên CLVT 4,9 ± 2,7 (2 – 16). Cắt gan nhỏ chiếm 60.5%. Cắt gan theo giải phẫu 65.8%.Kiểm soát cuống gan chọn lọc, và Pringle lần lượt là 65.8% và 94.7%. Cắt nhu mô gan bằng Ligasure, Harmonic, và Kelly lần lượt là 65,9%, 21%, và 13.1%. Không có bệnh nhân nào truyền máu trong mổ. Biến chứng sau mổ 15.7%, trong đó tràn dịch màng phổi, báng bụng, rò mật lần lượt là 7,9%; 5,2%, và 2,6%; không ghi nhận trường hợp suy gan. Thời gian nằm viện trung bình sau mổ là 8,8 (5-20) ngày. Kết luận: Ung thư biểu mô tế bào gan diễn biến âm thầm, triệu chứng không đặc hiệu. Cắt gan là phương pháp điều trị hiệu quản, an toàn, biến chứng còn cao nhưng phần lớn là mức độ nhẹ.
Thêm một bài đánh giá
Xếp hạng
Không có bài đánh giá nào!